Ngày xưa, ở một ngôi làng có hai anh em trong một gia đình hiếu học tên Tân và Lang. Là anh em sinh đôi nên dáng người và mặt mày giống nhau như đúc, chính những người bạn đồng niên cũng nhiều phen nhầm lẫn. Cha họ là một người Cao là một quan lang dưới thời vua Hùng. Gia đình họ sống với nhau rất hạnh phúc, êm ấm lại nổi tiếng hòa thuận cả vùng đều biết.
Hai anh em chưa tới tuổi trưởng thành thì cha mẹ không may gặp chuyện qua đời. Cả hai anh em vốn dĩ vô cùng thương yêu nhau, nay gặp nghịch cảnh khiến họ không rời nhau nửa bước. Người cha trước khi mất có gửi gắm hai con cho một thầy đồ họ Lưu. Hai Anh em sáng dạ, học hành chăm chỉ nên được thầy đồ rất quý trọng và quan tâm. Thầy đồ họ Lưu có một cô con gái cùng lứa tuổi với hai anh em họ Cao. Cô gái rất cảm mến hai anh em, nhưng vì hai anh em quá giống nhau và cô không thể phân biệt được hai anh em.
Để phân biệt hai anh em, một hôm cô gái họ Lưu bày ra một mẹo nhỏ. Giữa lúc họ đang đói, nàng chỉ dọn cho họ một bát cháo với một đôi đũa. Đứng sau khe vách, nàng thấy hai anh em nhường cháo cho nhau. Rồi người anh lên tiếng nhường phần cơm cho em, lúc này cô gái mới phân biệt được hai anh em. Từ lúc này cô giá con thầy đồ họ lưu củng mang lòng cảm mến người anh là Tân. Hai người thường xuyên gặp gỡ và lâu dần họ mang lòng yêu nhau. Thầy đồ họ Lưu củng biết chuyện, nghe bày tỏ muốn cưới con gái mình làm vợ. Thầy đồ họ Lưu vui lòng gả con cho Tân. Sau khi cưới, hai vợ chồng Tân đến ở một ngôi nhà mới, có Lang ở chung.
Từ ngày lấy vợ, Tân không quan tâm em như trước nữa. Lang nghĩ anh “mê vợ quên ta” trong lòng chán nản buồn bực.
Một hôm Lang và Tân cùng lên nương đến tối mịt mới về. Lang về trước làm vợ Tân nhầm liền ôm chầm lấy, lúc đó Tân bước vào nhà thấy chuyện sinh lòng ghen em, hững hờ và nói nặng lời với Lang. Lang vừa giận vừa xấu hổ lại ngại cả anh và chị dâu. Vì quá xấu hổ vì chuyện vừa xảy ra Lang bỏ nhà ra đi lúc trời mới mờ sáng, trong lòng vừa bực bội vì bị hiểu làm, vừa thấy ngại với anh chị. Mấy ngày đường, Lang tới bờ một con sông lớn nước chảy xiết. Lang quyết không chịu trở lại, cúi gục trên bờ, ôm mặt khóc. Chàng khóc mãi, khóc mãi, đến nỗi những con chim đi kiếm ăn khuya vẫn còn nghe tiếng nức nở. Sáng hôm sau, vì quá đau buồn Lang hóa đá.
Mãi sau vẫn không thấy em về, Tân thấy mình có hơi nặng lời với em, biết là em bỏ đi vì giận mình, chàng hối hận. Tân quyết tâm đi tìm em vừa để xin lỗi vừa để giải quyết các hiểu làm. Tìm một ngày không thấy em đâu chàng nghĩ chắc em củng về nhà sớm nên đã quay về nhà. Hôm sau nữa, cũng không thấy về, Tân hoảng hốt để vợ lại nhà, cất bước đi tìm. Chàng đến bờ con sông thấy em đã hóa thành đá. Những con chim thấy Tân liền cất tiếng hót ai oán như tiếng khóc của Lang. Tân nghe thấy tiếng chim hót nhớ thương em đứng bên cạnh hòn đá khóc mãi cho đến lúc chết và hóa thành một cây thân mọc thẳng lên trời, bên cạnh hòn đá.
Vợ Tân chờ mãi không thấy chồng về, cũng bỏ nhà đi tìm. Thấy có cây mọc cạnh tảng đá có tiếng chim hót ai oán. Nàng cũng tới nơi thấy hình dáng cây và đá quận với nhau như anh em Tân và Lang. Lại làm nàng nhớ Chồng, hối hận vì chuyện hiểu nhầm mình gây ra. Nàng ngồi cạnh cây và khóc cạn cả nước mắt và chết hóa thành một cây dây quấn quanh lấy cây kia.
Đợi mãi không thấy ba người về, vợ chồng thầy đồ nhờ mọi người chia nhau tìm kiếm. Tìm kiếm không thấy ai, lại thấy tiếng chim hót như thay cho tiếng khóc của ba người trước hòn đá và hai cây lạ. Họ củng dường như biết chuyện gì đã xảy ra. Dân làng quyết định dựng miếu thờ cả ba người trẻ tuổi ở ven sông. Dân quanh vùng gọi là miếu “anh em hòa thuận, vợ chồng tiết nghĩa”.
Một năm nọ trời hạn hán rất dữ chỉ có hai cây mọc bên cạnh hòn đá trước miếu là vẫn xanh mượt. Mọi người cho là linh dị. Vua Hùng một hôm ngự giá qua xứ đó. Khi đi qua trước miếu, vua ngạc nhiên hỏi: -“Miếu này thờ vị thần nào? Mấy loại cây này ta chưa từng thấy bao giờ?”. Lạc tướng cho gọi mấy cụ già ở quanh vùng đến hỏi. Hùng Vương càng nghe, không ngăn được sự cảm động. Vua vạch lá trèo lên nhìn khắp mọi chỗ và sai một người trèo cây hái quả xuống nếm thử. Vị chát không có gì lạ. Nhưng khi nhai với lá cây dây thì một vị là lạ đến ở đầu lưỡi: nó vừa ngon ngọt, vừa thơm cay.
Tự nhiên có một viên quan hầu kêu lên: – “Trời ơi! Máu!”. Thì ra những bãi nhai quả và lá của hai thứ cây đó một khi nhổ xuống đá bỗng đỏ ối ra như máu. Vua sai lấy cả ba thứ nhai lẫn với nhau thì bỗng người thấy nóng bừng như có hơi men, môi đỏ tươi sắc mặt hồng hào tươi đẹp. Vua bảo:
- Thật là linh thiêng! Đúng là họ rồi! Tình yêu thương của họ thật là nồng nàn thắm đỏ.
Từ đó vua Hùng ra lệnh cho mọi nơi phải gây giống cho nhiều hai loại cây ấy, bắt buộc trai gái khi kết hôn thế nào cũng phải tìm cho được ba món: trầu, cau và vôi cho mọi người nhai nhai nhổ nhổ một tý để ghi nhớ tình yêu không bao giờ phai nhạt. Từ đó dân Việt mới có tục ăn trầu.
Cho đến ngày nay, trầu cau vẫn là thứ không thể thiếu trong đám hỏi, thành hôn, kết thân và cưới hỏi của người Việt.
BÀI VIẾT CÙNG DANH MỤC
Thầy Bói Xem Voi
Chân Tay Tai Mắt Miệng
Truyện Cổ Tích Chú Bé Thông Minh
Cóc Kiện Trời
Truyền Thuyết Mai An Tiêm
Cây Tre Trăm Đốt
BÀI VIẾT CÙNG THỂ LOẠI
Truyện Cổ Tích Chú Bé Thông Minh
Cóc Kiện Trời
Truyền Thuyết Mai An Tiêm
Cây Tre Trăm Đốt
Trí Khôn Của Ta Đây
Đẽo Cày Giữa Đường